Xuất hiện lần đầu tiên năm 1986 với Tướng về hưu, ông lập tức gây sửng sốt cho người đọc, và suốt 20 năm qua, mỗi tác phẩm của ông đều khuấy đảo cái không khí vốn tịch mịch của văn chương Việt. Những tác phẩm ấy gây tranh cãi về cách hiểu, cách đọc, cách phê bình văn học, tạo sự hứng thú cho cả người đọc, nhà phê bình, người quản lý. Sống, đau đớn, chiêm nghiệm, tỉnh thức, để rồi lại mê man, tìm kiếm… ông trình bày cuộc sống như nó đang là, để đời sống tự nó hiện lên ý nghĩa.
Ông thường đón nhận người yêu kẻ ghét tác phẩm của mình bằng nụ cười kiêu bạc. Giờ tóc đã điểm sương, ông có còn giữ được sự kiêu bạc ấy khi có người nói “Nguyễn Huy Thiệp suy rồi”, “Nguyễn Huy Thiệp đang bị bắn chết trong văn học”, “Nguyễn Huy Thiệp chấp chới trong sự sống và cái chết”...?
Chừng nào còn bên nam bên nữ, bên ghét bên yêu là mình còn. Xuất hiện lần đầu tiên năm 1986, bắt đầu thời kỳ đổi mới, năm tôi 36 tuổi, đến giờ đã 63 tuổi, qua ba con giáp, cũng là lúc kết thúc sự nghiệp văn học của mình, kết thúc cuộc đời. Có một cái duyên: tác phẩm Tướng về hưu của tôi in đầu tiên ở Sài Gòn, và bây giờ, tác phẩm cuối cùng cũng được in và bày bán trước tiên ở đây. Dù nhiều luồng dư luận khác nhau nhưng không ai chối bỏ rằng nó vẫn mang chất Nguyễn Huy Thiệp. Càng tàn bạo, càng nhọc nhằn, đau đớn, hoang mang thì càng gần đến đạo. Tác phẩm của tôi làm đảo lộn cách nghĩ, đó phải chăng cũng là một trò chơi, trò chơi vô tăm tích.
Ông đã viết hơn mười tác phẩm kịch, chèo, khi viết ông có nghĩ đến việc chuyển nó lên sân khấu biểu diễn?
Cuộc đời sáng tạo mỗi người có một con đường riêng, một số phận riêng. Rất nhiều người tài khi mới bước vào sự nghiệp đều bị người đi trước coi là không biết viết. Hồi tôi bắt đầu xuất hiện trên báo chí đã từng bị những người biên tập cho là lối viết cọc cạch, không phải văn học, nên chuyển nghề khác! Với Vong bướm, chính Trần Đăng Khoa còn nói: “Mọi người bị ông Thiệp lừa hết, ông ấy chẳng biết gì về chèo cả”. Chúng ta sống trong cuộc đời, tất cả mọi người đều đi trong cõi hỗn độn vô minh, như thể một đầm lầy đen tối. Trong đầm lầy may mắn nhô lên một mỏm đá, những mỏm đá ấy có thể là Nguyễn Du, Bùi Xuân Phái… Nếu không có những mỏm đá nhô lên trên đầm lầy thì người ta biết đi đâu… Có những hòn đá bước lên bị thụt xuống mất tiêu luôn, nhưng cũng có những hòn đá giúp ta đứng lên đi tiếp. Với mỗi kịch bản sân khấu, tôi làm hết mình.
Tôi muốn bước đầu mở ra một cách xem, nghe, nhìn mới. Tôi tưởng tượng Vong bướm sẽ thoát khỏi sân khấu truyền thống, được trình diễn trên một sân khấu hoành tráng như cuộc thi hoa hậu, với ánh sáng tưng bừng, và dàn đồng ca là hàng trăm cô gái… Trong lễ trao giải tại Ý, tôi đã từng chứng kiến hàng trăm sinh viên hát những bài dân ca nổi tiếng của Ý gây không khí náo nhiệt. Những giá trị văn hoá cổ truyền như chèo, cải lương, tục ngữ ca dao… không thể chỉ trình diễn ở mái đình cây đa. Nếu không bước vào không gian sân khấu hiện đại, không biết biến hoá, nó sẽ chết. Có những tác phẩm mà thời điểm ra đời và thời điểm xuất hiện có khi không trùng nhau, như vở Nguyễn Trãi ở Đông Quan của Nguyễn Đình Thi, hay vở Ba chị em của Tchekhov đến nay vẫn chưa được dựng.
Trong các tác phẩm của ông, nhân vật đều hiện lên với tất cả sự trái ngược: trắng đen, tinh khiết, tục tằn... Dường như ông yêu cuộc sống với những gì đẹp đẽ và cả sự thô nhám?
Người viết văn chúng tôi rất khó lý giải về tác phẩm của mình. Văn học là một công việc lao động đặc biệt, phụ thuộc chuyện người viết sống thế nào mới có cái để kể cho người khác nghe. Tôi nhớ giai thoại về Dostoevsky, khi người ta hỏi ông thích nhất tác phẩm nào, ông nói Anh em nhà Karamazov, ông thú thực đã viết khi đang bị bệnh trĩ hoành hành. Viết giúp ông trượt qua nỗi đau rất thực đó. Ông viết về nỗi đau của chính chúng ta, không phải nỗi đau xa xôi nào. Con người sống trong tăm tối vô minh. Đi tìm con đường sống cho con người, nhiều khi phải rất đau đớn về cả thể xác và nội tâm, phải trải qua những đắng cay, trần trụi nhất mới có thể viết những tác phẩm có lòng từ bi hỉ xả, đó cũng là hạnh phúc… Hãy làm bằng sức của mình, đừng cố gắng, cố rất mệt… Một bạn viết văn trẻ đã nói với tôi rằng: “Văn học của ta rất ít muối, tác phẩm của ông là muối xát vào lòng người đọc”. Điều đó an ủi tôi nhiều. Viết là làm cho bản thân và một vài người quanh ta khá khẩm hơn lên một chút, đó là cái nhìn rất thực tế của tôi về cuộc sống nói chung và nghệ thuật nói riêng.
Đi từ truyện ngắn đến truyện dài, tiểu thuyết, phê bình văn học, và bây giờ là kịch thơ, chèo… sắp tới không biết ông sẽ còn đi đâu?