-
-
-
{{item.Color.Name}}
- {{item.Name}}
106,000 đ
Tiết kiệm:
19,000 đ (15%)
Giá thị trường: 125,000 đ
Tình trạng:
Hết hàng
THÔNG TIN CHI TIẾT
Giới thiệu sản phẩm
Đó là tuyển tập kịch bản sân khấu được giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật của tác giả Minh Khoa vừa được NXB Văn nghệ TPHCM phát hành. Có lẽ, khi nói đến tác giả Minh Khoa, đại tá quân đội (tên thật là Đặng Quang Hổ), nhiều người phải cảm phục về sự miệt mài lao động, viết kịch bản sân khấu của ông từ những câu chuyện “người thật, việc thật” hết sức sống động. Có những kịch bản sân khấu, để hoàn thành được nó, ông phải mất đến 13 năm đi tìm chất liệu sống. Chính sự cẩn trọng của ông đã mang lại cho kho tàng sân khấu Việt Nam nhiều kịch bản hay, cuốn hút người xem. Dù những kịch bản của ông từng được nhiều đoàn nghệ thuật dàn dựng, biểu diễn cách nay đã hàng chục năm, nhưng khi nhắc tới tác giả Minh Khoa, những người yêu thích sân khấu đều nhớ về Người ven đô, Người không cô đơn… Vì thế, khi đọc tuyển tập kịch bản sân khấu Hào kiệt đêm thế kỷ của ông, người đọc như gặp lại những nhân vật, hình tượng nghệ thuật sân khấu một thời mà mình yêu thích. Đó là Hồ Huân Nghiệp trong Hồ Huân Nghiệp, Tôn Đức Thắng – Bài ca Hắc Hải, “Ông già trầu” Võ Văn Tần – Theo bước chân Võ Văn Tần, Tám Khỏe – Người ven đô, Nguyễn Thị Hạnh – Người không cô đơn… Ở mỗi nhân vật, ông đều khắc họa rõ nét tính cách rất Nam bộ: mạnh mẽ, quyết liệt, giàu lòng vị tha, yêu ghét rạch ròi, sẵn sàng hy sinh bản thân vì nghĩa, vì nhân. Có thể nói, những hình tượng nghệ thuật mà tác giả Minh Khoa đưa vào các tác phẩm sân khấu của mình mang tính giá trị lịch sử, nhân văn rất cao. Khi đọc kịch bản văn học hay sân khấu của ông, người đọc dễ dàng đồng cảm về điều này. Ngay cả những nghệ sĩ thể hiện các nhân vật trong tác phẩm sân khấu của ông cũng thừa nhận như thế. Như cố NSND Ba Vân – người thể hiện vai Tám Khỏe trong vở Người ven đô từng chia sẻ: “Tôi rất cố gắng trong vai Tám Khỏe, nhưng chính nhân vật Tám Khỏe trên sân khấu đã giúp tôi tìm hiểu lại đời mình. Thật vô cùng có ý nghĩa với đời nghệ sĩ của tôi, với vai Tám Khỏe, tôi được dịp hôn chiếc áo của Sáu Hộ – đại diện cho tình cảm cao quý của Đảng đã gởi cho, coi đó như là một biểu trưng gắn bó sống chết có nhau của Đảng với người dân. Vì vậy khi tập diễn cũng như lúc công diễn tôi cũng không rõ nhân vật Tám Khỏe hay chính tôi – Ba Vân – đã nhiều lần lau nước mắt trên chiếc áo ấy. Giọt nước mắt ấy là của Tám Khỏe, nhân vật trong một vở kịch, nhưng nó đích thực là giọt nước mắt của tôi. Tám Khỏe ân hận một, tôi ân hận mười…”. Vì vậy những hình tượng nghệ thuật sân khấu trong kịch bản của tác giả Minh Khoa sẽ còn sống mãi với thời gian, truyền từ thế hệ độc giả, khán giả này sang thế hệ độc giả, khán giả khác; từ thế hệ nghệ sĩ đi trước sang nghệ sĩ tiếp nối. Chẳng nói đâu xa, ngay ở cuộc thi “Triển vọng Trần Hữu Trang năm 2007” vừa diễn ra ở Cần Thơ, công chúng hôm nay đã thấy rõ điều ấy qua vai diễn Tám Khỏe của nghệ sĩ trẻ Trần Hoàng Khanh (Đoàn cải lương Tây Đô). Nhưng với tác giả Minh Khoa – một nghệ sĩ, chiến sĩ cách mạng thì dường như, những gì mà ông đã và đang làm cho nền nghệ thuật nước nhà chưa bao giờ đủ. Hiện nay, dù tuổi ông đã ngoài 80 nhưng ông vẫn miệt mài bên những bản thảo, viết tiếp về những hào kiệt của dân tộc trong ba thời kỳ: chống Pháp, chống Mỹ và đổi mới. Với sức làm việc bền bỉ, ghi chép lại những hào kiệt của một thời và mãi mãi, nếu ai đó có bảo ông: “nghệ sĩ không có tuổi”, chắc chắn chẳng sai…
Theo SGGP 05/01/2007
SÂN KHẤU PHẢI CÓ NHỮNG TÁC PHẨM XỨNG ĐÁNG VỚI TẦM VÓC CỦA THỜI ĐẠI CHÚNG TA
Ngay từ khi phía Mỹ buộc phải ký kết hiệp định Pari, khi những tên lính Mỹ cút khỏi Việt Nam, những người công tác sân khấu rất đỗi mừng vui tự hào, đồng thời cũng hết sức lo lắng: Phải làm thế nào đây để có tác phẩm phản ánh cho được chiến công hiển hách, hết sức lớn lao này của dân tộc. Đầu năm 1973, giữa ngày xuân, giữa ngày hội chiến thắng, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gặp gỡ nói chuyện thân mật với đông đảo anh chị em công tác văn nghệ, Thủ tướng nói: “Cuộc kháng chiến vĩ đại chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta chính là một giai đoạn lịch sử vĩ đại của dân tộc ta, đồng thời là một cuộc đấu tranh mà thắng lợi vĩ đại mang tầm vóc thời đại. Vì vậy, những người làm công tác văn học nghệ thuật phải có những tác phẩm lớn xứng đáng với tầm vóc đó. Các đồng chí hãy thảo luận với nhau để xem có thể làm được cái gì”.
Nghe những lời nhắc nhủ ân cần như vậy của Thủ tướng, những người công tác sân khấu càng nhận rõ có vinh dự lớn và có trách nhiệm rất nặng nề. Mở đầu Trại sáng tác kịch bản sân khấu 1973, anh chị em đã để nhiều thời gian trao đổi về bài nói chuyện của Thủ tướng. Họ đã được dịp tâm sự với nhau, giãi bày với nhau những khó khăn và quyết tâm của mình. Bao nhiêu anh chị đã kể về những chuyến đi của mình, đi để hiểu để viết, đi vào những nơi nóng bỏng lửa bom, nhưng lại được quần chúng yêu thương đùm bọc. Thanh Hương kể lại, có lần một mình đi vào các tuyến giao thông, những trọng điểm ác liệt nhất của khu Bốn, “thân gái dặm trường”, chị không khỏi hồi hộp lo lắng, nhưng vẫn luôn luôn được đồng bào, được bao nhiêu bạn gái khác giúp đỡ. Những bạn gái ấy hầu như đã hy sinh tuổi xuân của mình cho những con đường ra tiền tuyến. Thanh Hương nhất định phải viết vở kịch nói về họ. Minh Khoa, một cây bút trẻ của lực lượng vũ trang, đã kể về những gương kiên trung của đồng bào ven đô Sài Gòn. Đào Hồng Cẩm báo cáo về những gương chiến đấu rất xúc động của nhân dân và chiến sĩ Vĩnh Linh. Phải viết, phải thể hiện bằng được những hình tượng anh hùng rất đỗi tự hào ấy. Cầm bút viết là để được trả ơn. Chưa viết được tác phẩm xứng đáng với chiến công của họ thì ăn chưa ngon, ngủ chưa yên.
Những bạn trẻ mới bước vào sân khấu càng giàu nhiệt tình, mong được giúp đỡ. Trần Đình Ngôn đã thổ lộ nỗi lòng của những người viết trẻ ở địa phương. Anh đã viết 7 vở dài, chưa vở nào được dựng. Nhưng không nản, anh tự nguyện làm “cậu phó nhỏ”, xách đục, mang cưa cho những người “thợ cả”, chuyển thể từ kịch của những người “đàn anh” thành chèo để học tập, để mài giũa tài năng.
Nhiều người đã lăn lộn hàng mấy chục năm với ánh đèn sân khấu nhà hát mà giờ vẫn thấy cần thiết phải học, phải nỗ lực vươn lên. Hoàng Châu Ký đã nói rất đúng: “Cuộc sống ngoài đời phong phú quá, sinh động quá, người nghệ sĩ cảm rõ sự bất lực của mình, đến nỗi lúng túng, bối rối không sao thể hiện nổi vào sân khấu nhà hát”.
Chưa bao giờ những người tác gia sân khấu lại tự phê bình rạch ròi như bây giờ. Nguyễn Hùng thấy cần thiết phải đi vào cuộc sống, anh tha thiết mong các đồng chí phụ trách các ngành hãy giúp anh, đặt yêu cầu cho anh. Nguyễn Đức Thuyết đã hàng chục năm để hết tâm sức nghiên cứu về những anh hùng có thật. Anh đã viết về Mạc Thị Bưởi, Nguyễn Viết Xuân, Nguyễn Thái Bình. Nhưng anh chưa bằng lòng với những sáng tác ấy, anh tự nhủ còn phải đi, phải học, phải thấm sâu cuộc sống đầy nghĩa, đầy tình của người anh hùng mới thể hiện được thành công. Người cầm bút phải thật rung động, thật thấm thía như Đình Quang nói: anh phải nói cái gì anh từng trải sâu sắc, để răn dạy người đời, sân khấu không phải là nơi để anh kể lể đủ mọi sự việc mà anh đã quan sát được. Thế thì làm sao để tác phẩm có thể nắm bắt được, đề xuất được vấn đề cho thật đúng đắn, có tác dụng bổ ích cho người đọc, người xem? Không phải có nhiều vốn sống đã đủ. Nhiều người còn nhấn mạnh cái trình độ kiến thức, thẩm mỹ của người cầm bút. Xuân Trình sống ở Hà Nội thấy rõ cái anh hùng của người Hà Nội trong 12 ngày giặc Mỹ không tập bằng B.52, anh muốn viết vở kịch để thể hiện sự kiện ấy nhưng không sao viết được. Anh băn khoăn bứt rứt: phải chăng tay nghề của mình còn non cho nên chưa đủ sức đưa các anh hùng từ cuộc sống vào nghệ thuật! Anh trăn trở tìm học nâng cao trình độ của mình.
Thắng lợi của dân tộc ta như Thủ tướng nói, mang “tầm vóc thời đại”. Làm thế nào để có những tác phẩm xứng đáng với tầm vóc đó? Yêu cầu đặt ra thật lớn mà khả năng anh chị em tác gia sân khấu thật hạn chế. Cho nên rất đông anh chị em trong nhiều buổi trao đổi đều nhấn mạnh phải học, phải trao đổi nghề nghiệp. Không phải những ngày bước vào trại sáng tác này, anh chị em mới nhận thức điều đó. Qua báo cáo của Trần Vượng, ta thấy anh băn khoăn nhiều về vấn đề thuộc nghề nghiệp của mình từ lâu. Anh đã soát lại từng chặng đường đi của sân khấu. Cái gì làm cho Sếch-xpia, Mô-li-e, Sê-khốp, v.v... trở thành vĩ đại? Nhà kiến trúc khi xây dựng phải tính đến sức bền vật liệu. Nhiều tác gia sân khấu nổi tiếng đã lấy sự kiện lịch sử, anh hùng lịch sử làm đối tượng miêu tả, làm sức bền của nghệ thuật. Nhưng chúng ta, trước hết phải miêu tả về thời đại của mình, phải có “con mắt xanh”, sự từng trải mới có thể tạo nên sức bền nghệ thuật của mình. Những điều gọi là tâm sự của anh chị em cũng là những suy nghĩ tìm tòi để cố sức vươn lên, tạo cho mình thật sự có bản lĩnh như lời Thủ tướng đã nhắc nhở.
Các anh Thiết Vũ, Tất Đạt, Hoàng Luyện, Tào Mạt, v.v... có nói nhiều về những cái thuộc tổ chức quản lý, chỉ đạo chính vì lẽ họ nhận thức tác phẩm sân khấu là công trình lao động của tập thể. Sự nỗ lực đơn độc không thể tạo được những thành quả lớn. Họ yêu cầu tha thiết phải có sự chuyển biến đồng bộ của mọi thành viên: tác gia, đạo diễn, diễn viên, quản lý nhà hát, v.v... mới tạo được những vở diễn tốt, vở diễn lớn.
Đồng chí Lưu Trọng Lư, Tổng thư ký Hội Nghệ sĩ sân khấu, khi kết thúc những buổi trao đổi này đã sung sướng nói: Anh chị em phát biểu đều có ý thức xây dựng, muốn sát cánh chung sức giải quyết mọi vấn đề, cả vấn đề quản lý nghệ thuật; chúng ta không buông xuôi, ngoảnh mặt trước khó khăn trở ngại, nhiều vấn đề lý luận phải được giải quyết trước hết là sân khấu phản ánh hiện thực như thế nào? Nhiều vở diễn phải được đánh giá ưu khuyết cho rạch ròi... Đồng chí mong mỏi anh chị em hãy để tâm trao đổi những vấn đề đó trong thời gian tiếp theo của trại sáng tác.
Hà Nội, 3-1973
TỪ LƯƠNG
(Báo Nhân Dân)
Đăng ký nhận bản tin
Đừng bỏ lỡ những tin nhắn ưu đãi độc quyền dành riêng cho bạn
NHẬN XÉT CỦA KHÁCH HÀNG
Chưa có đánh giá