-
-
{{item.Color.Name}}
- {{item.Name}}
110,500 đ
Tiết kiệm:
19,500 đ (15%)
Giá thị trường: 130,000 đ
Tình trạng:
Hết hàng
THÔNG TIN CHI TIẾT
Giới thiệu sản phẩm
Tác phẩm này được xuất bản năm 1938, bốn năm sau "Tinh thần khoa học mới", trong đó Bachelard nhằm "nắm bắt tinh thần khoa học đương đại trong biện chứng của nó". Với quan điểm là triết học phải rút ra những kết luận từ khoa học tự nhiên chứ không phải ngược lại, những tư duy của ông khởi đi từ những thành tựu khoa học có tính cách mạng của đầu thế kỷ 20: hình học phi Euclide, toán học xác suất, thuyết tương đối và thuyết lượng tử... để đề nghị một phương pháp luận "phi Descartes"... Những điều này, có thể nói là về mặt sáng của tinh thần khoa học đương đại, hiện nay đã được phổ biến nhiều, nên người dịch nhận thấy có lẽ việc dịch Sự hình thành tinh thần khoa học, nói về vùng tối mà tư duy khoa học đã phải vượt qua, có lẽ mang lại nhiều điểm mới và có ích hơn để phục vụ bạn đọc Việt Nam ngày nay. Tác phẩm này chỉ nói về việc thành hình tư duy khoa học cổ điển, nói chính xác hơn là về những chướng ngại của tư duy tiền khoa học trong thế kỷ 18 về trước, mà nó đã vượt qua.
Sách có 12 chương thì ngoài hai chương mở đầu và kết luận, Bachelard dành 10 chương cho 10 chướng ngại nhận thức khác nhau. Để tìm ra những chướng ngại đó và tìm hiểu qua cơ chế nào đã tác động đến việc nghiên cứu khoa học, Bachelard đã dựa trên sự phân tích một thư tịch đồ sộ của các tác giả tiền khoa học, và ngay cả của những nhà khoa học tiên phong lớn như Buffon, Descartes, Franklin, Lavoisier, Volta... trong chừng mực mà tư duy khoa học của họ vẫn chưa thoát ra hẳn khỏi những chướng ngại. Chính vì thế, qua đó người đọc cũng khám phá những nét rất thú vị của tư tưởng tiền khoa học tại Âu Tây, những nét này không khỏi khêu gợi sự liên tưởng về các dấu vết hiện nay vẫn còn nằm sâu trong nền văn hoá này; cũng không kém thú vị khi người ta nghĩ đến những tương đồng với nhiều nét của tư duy Á Đông, có tính tiền khoa học khá rõ rệt. Phân tích của Bachelard sử dụng công cụ lý luận của phân tâm học, phân tâm luận của Bachelard mở rộng phân tâm luận của Freud theo nghĩa Freud chỉ nghiên cứu phân tích tâm lý trong quan hệ giữa người với người, Bachelard đem những phuơng pháp phân tâm luận áp dụng cho quan hệ giữa người và tự nhiên.
Ngoại trừ những trường hợp đơn lẻ, hai thí dụ được Bachelard tập trung mổ xẻ là ngành giả kim - hoá học, và sự phát triển của điện học.
*
Trong mười chướng ngại nhận thức, có thể gom lại bốn chướng ngại đầu tiên, từ Chương II đến Chương V là: 1) Chướng ngại của kinh nghiệm trực quan; 2) Chướng ngại của hiểu biết tổng quát; 3) Chướng ngại của ngôn ngữ; và 4) Chướng ngại của hiểu biết thống nhất và thực dụng. Có lẽ chúng đều đi đến từ rất sâu thẳm trong quá trình hình thành con người: nhận diện thế giới vật chất qua kinh nghiệm thực tiễn, mô tả nó qua ngôn ngữ rồi chịu ảnh hưởng ngược lại của ngôn ngữ, và khái quát hoá quá sớm.
Chương VI nói về 5) Chướng ngại duy thể chất, có lẽ đặc thù hơn trong một nền văn hoá tiếp thu từ Hy Lạp: bất cứ hiện tượng nào cũng là biểu hiện của một thể chất. Người ta không đặt nặng hoặc chưa hình thành rõ rệt ý tưởng về hiện tượng như một quan hệ giữa các thực thể.
Trong bốn chương tiếp theo từ VII đến XI: 6) Phân tâm luận về người duy thực; 7) Chướng ngại vật linh; 8) Huyền thoại về sự tiêu hoá; và 9) Libido và hiểu biết khách quan; tác giả vận dụng những phương pháp của phân tâm học để nêu rõ tại sao có những sai lạc trong những tiếp cận mang tham vọng khoa học nhưng không đạt được tính khoa học cần thiết: đó là do ảnh hưởng bị giấu kín của những động lực có tính bản năng của con người, như bản năng chiếm lĩnh, sự phóng chiếu vật linh, bản năng đói, và libido.
Chương XI, 10) Những chướng ngại cho sự hiểu biết định lượng, đề cập đến hiện tượng định lượng hoá quá đà, thành vô nghĩa; mở rộng ra, đó là ý hướng tuyệt đối hoá việc áp dụng các quy luật khoa học. Có thể hiểu đây là trường hợp sự hiểu biết khoa học đã cũ có thể trở thành một chướng ngại cho một nhận thức khoa học mới.
*
Một đôi lời về "Lời phi lộ" của tác giả. Như ông đã viết trong chương "Đề cương": "Nhận thức về thực tại là một nguồn sáng luôn luôn phóng ra bóng tối ở một nơi nào khác", tác phẩm này chủ yếu nói về những vùng tối, vùng phủ bóng của những chướng ngại nhận thức. Ông xoáy mạnh vào giai đoạn lịch sử mà những chướng ngại sắp được vượt qua, nhưng ít khi trả lời câu hỏi: "vượt qua như thế nào?". Theo thiển ý, mỗi lần "vượt qua" là một hành động sáng tạo đặc thù không thể mô tả ngắn gọn, vượt qua chướng ngại để đến vùng sáng của khoa học cần những tác phẩm khác; "tinh thần khoa học là như thế nào?" chỉ được nhắc lại rất ngắn gọn trong tác phẩm này. "Lời phi lộ", và phần đầu của "Đề cương" làm công việc đó một cách rất súc tích, vì vậy tương đối khó nắm bắt. Có lẽ bạn đọc không quen với lịch sử khoa học không nên nản lòng, đoạn đầu của cuốn sách này cần được đọc trở lại nhiều lần trong khi đọc những chương sau, vùng tối của bức tranh có thể sẽ phần nào làm rõ nét hơn vùng sáng chăng.
Tuy nhiên, cũng cần biết thêm lịch sử khoa học về phía ánh sáng, để hiểu rõ hơn tác phẩm. Chẳng hạn, đoạn mở đầu của "Lời phi lộ" sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta nhớ lại câu nói của Gallilei có đại ý: "Tự nhiên được viết bằng ngôn ngữ toán học". Ngay sau đó, "sự thiếu hụt" mà biểu hiện toán học có thể bao hàm, và "dẫn đến những quan hệ cơ bản sâu sắc hơn"... sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta lấy làm thí dụ thuyết tương đối hẹp đã nói tới ở trên. Mặc dù hai tiền bối Lorentz và Poincaré đã phát triển đại bộ phận mô hình toán học, nhưng họ vẫn đứng trong vùng phủ bóng của chướng ngại nhận thức, chướng ngại đó chính là khái niệm ête, mà người tuổi trẻ Einstein đã vượt qua bằng cách triệt tiêu hoàn toàn. Lorentz và Poincaré đã biết "cái như thế nào thuần hiện tượng" nhưng chỉ Einstein mới trả lời được về "cái tại sao toán học". Và đó là phê phán của Bachelard về thái độ thực chứng luận giáo điều, trước mọi hiện tượng vẫn rao giảng (đại ý) "khoa học chỉ trả lời câu hỏi: như thế nào? chứ không hề nói tại sao".[6]
*
Cuộc đời tự học và dạy trung học của Bachelard có ảnh hưởng không nhỏ đến các tác phẩm về khoa học luận của ông, nhất là trong tác phẩm Sự hình thành tinh thần khoa học được dịch và giới thiệu ở đây. Đồng thời như ta đã thấy, đây cũng là một tác phẩm nối liền hai dòng tư duy của ông, tư duy phân tâm học về tổng thể con người cá thể, kể cả những ảnh hưởng vô thức, đứng trước thế giới; và tư duy khoa học chính xác, nhằm tiến đến hiểu biết duy lý về Hiện Thực. Tóm lại, có thể nói không tác phẩm nào "mang dấu ấn Bachelard" hơn tác phẩm này: nhà giáo, nhà phân tâm học, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử khoa học... bởi vậy, đây cũng là tác phẩm độc đáo nhất, không những của ông, mà còn của cả thư tịch khoa học luận.
Và nếu tư duy con người cá thể phát triển theo một mô hình thu nhỏ của lịch sử tư duy của loài người; thì những chướng ngại nhận thức mà Bachelard chỉ ra cho khoa học của thế kỷ 18 vẫn còn trong tâm lý con trẻ (và ít nhiều trong cả những người không có một hiểu biết vững vàng về tinh thần khoa học hiện đại) ngày nay. Do đó, tác phẩm của Bachelard không chỉ có giá trị nhận thức luận, mà nó còn có giá trị bổ túc kiến thức rất cụ thể cho ngành sư phạm, cho các thầy giáo tiểu học và trung học, cho các trách nhiệm truyền thông về khoa học. Tựa đề Sự hình thành tinh thần khoa học của tác phẩm phải được hiểu theo hai ý nghĩa, ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa sư phạm.
Để kết thúc phần giới thiệu, xin nêu một hướng nghiên cứu có lẽ có ích và mới cho các nhà khoa học luận Việt Nam: trong các chướng ngại này, điều gì là phổ quát cho con người (thí dụ như libido)? Dĩ nhiên, ở đây nó mang một hình thức văn hoá Âu Tây đặc thù, vậy ở Á Đông nó mang những hình thức nào? Và điều gì tuỳ thuộc hẳn vào văn hoá Âu Tây? Như thế có chướng ngại nhận thức đặc thù nào tuỳ thuộc hẳn vào văn hoá Á Đông? Biểu hiện của những chướng ngại nhận thức có tính tiền khoa học này trong tư duy người Việt hiện nay cụ thể là những gì? Có lẽ đây không phải những câu hỏi viển vông.
*
Đến đây xin có vài ghi chú về dịch thuật: các chú thích đánh số 1, 2, 3 ở cuối trang là của tác giả, phần lớn ghi xuất xứ những trích dẫn nên người dịch đã chọn để nguyên văn tên các tác phẩm, sẽ có ích hơn nếu bạn đọc muốn tìm các tác phẩm đó để tra cứu. Những chú thích để trong ngoặc vuông là của người dịch, nếu rất ngắn thì viết thẳng trong ngoặc vuông, nếu dài hơn thì được quy chiếu theo thứ tự a, b, c... vào các giải thích ở cuối mỗi chương. Ngoài ra, so với bản in tiếng Pháp, người dịch đã lợi dụng những tiến bộ về in ấn để viết – những đoạn văn của các tác giả khác mà Bachelard trích dẫn – bằng một kiểu chữ khác, giúp bạn đọc dễ nhận ra.
Các từ đoạn tiếng Anh, tiếng Đức hay tiếng Latin mà tác giả viết trong nguyên bản được ghi lại rõ. Người dịch không có khả năng tiếng Đức nên đã được bạn bè giúp đỡ, khi người này khi người khác; các từ đoạn tiếng Latin hay tiếng Pháp cổ (nhiều khi không tìm thấy trong từ điển) đã được bạn đời Françoise Pair giải thích hộ; một số thuật ngữ triết học được học hỏi từ nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn, với công trình dịch thuật triết học khả tín và lộng lẫy. Xin cảm ơn tất cả.
Với công việc hiệu đính của bạn cố tri Nguyễn Văn Khoa thì lời cảm ơn nhiều bao nhiêu cũng không đủ, do đó ít bao nhiêu cũng là thừa. Chỉ xin nói rằng, ngoài những khiếm khuyết còn lại mà người dịch hoàn toàn chịu trách nhiệm và mong được bạn đọc chỉ giáo thêm, bản dịch này đã được hoàn chỉnh rất nhiều nhờ người hiệu đính đã đọc bản thảo rất kỹ lưỡng, chỉ ra rất nhiều sơ suất.
Sau cùng, xin cảm ơn người biên tập Hoàng Thanh Thuỷ đã nhặt sạn hộ lần chót và xin có lời tạ lỗi với Nhà xuất bản Tri thức, vì sự "vỡ kế hoạch" không chỉ một lần với bản dịch này. Chỉ có thể xin nhà xuất bản và bạn đọc thông cảm trước một công việc quả thực "lực bất tòng tâm" đối với một người không chuyên, cả về ngôn ngữ lẫn triết học. Mong rằng, dù còn những khiếm khuyết về dịch thuật, cuốn sách này vẫn mang lại được một vài điều bổ ích cho sự nghiệp giáo dục khoa học tại Việt Nam.
Mua sách online tại Bookbuy.vn và nhận nhiều ưu đãi.
Đăng ký nhận bản tin
Đừng bỏ lỡ những tin nhắn ưu đãi độc quyền dành riêng cho bạn
NHẬN XÉT CỦA KHÁCH HÀNG
Chưa có đánh giá