-
-
{{item.Color.Name}}
- {{item.Name}}
80,500 đ
Tiết kiệm:
14,500 đ (15%)
Giá thị trường: 95,000 đ
Tình trạng:
Hết hàng
THÔNG TIN CHI TIẾT
Giới thiệu sản phẩm
Chàng - một tử tước cao ngạo ăn chơi trác táng hạng nhất London đang có ý muốn kết hôn trong năm nay. Và người chàng để mắt tới không ai khác ngoài Edwina xinh đẹp, em gái nàng.
Nàng - một cô gái thông minh, bướng bỉnh, đang muốn chọn chồng cho em gái. Và lẽ dĩ nhiên người nàng muốn chọn cho Edwina không thể nào và không bao giờ là chàng.
Thế rồi định mệnh đưa đẩy, người nàng muốn em gái mình tránh xa nhất lại là người đưa nàng vào vòng say mê…
***
Đôi nét về tác giả Julia Quinn
Julia Quinn (tên thật Julie Pottinger) là nhà văn Mỹ nổi tiếng trên khắp thế giới với các tác phẩm lãng mạn lịch sử. Các tác phẩm của bà đã được dịch ra hơn mười thứ tiếng, chín lần được đứng trong danh sách New York Times Bestseller, ba lần đoạt giải RITA.
Julia Quinn đã tốt nghiệp trường Harvard chuyên ngành Lịch sử Nghệ thuật và từng học y tại Yale trước khi quyết định dành toàn thời gian cho viết lách. Bà bắt đầu sáng tác khi vừa rời trường trung học, và ngay từ các tác phẩm đầu tay, bà đã nhận được những phản hồi tích cực từ cả độc giả lẫn các nhà xuất bản. Năm 2010, bà đã được ghi danh tại Bảo tàng Danh vọng các Nhà văn Lãng mạn Mỹ.
***
Lời khen tặng dành cho Tử tước và em
“Tử tước và em có mọi thứ bạn muốn trong một tiểu thuyết lãng mạn lịch sử. Quinn là nhà văn bậc thầy của thể loại này.”
- D. Salvagin, Romance Reader
“Julia Quinn thực sự là Jane Austen đương đại.”
- Jill Barnett
***
Trích Tử tước và em
Chương 1
Chủ đề về những kẻ ăn chơi trác táng tất nhiên đã được thảo luận trước đây trên mục báo này, và Tác Giả Đây đã đi đến kết luận là những kẻ ăn chơi trác táng có tồn tại, và có tồn tại những Kẻ Ăn Chơi Trác Táng.
Anthony Bridgerton là một Kẻ Ăn Chơi Trác Táng.
Một kẻ ăn chơi trác táng (viết thường) còn trẻ và chưa chín chắn. Anh ta khoe khoang những chiến công của mình, cư xử ở mức ngu dốt cực điểm, và tự cho rằng mình nguy hiểm đối với phụ nữ.
Một Kẻ Ăn Chơi Trác Táng (viết hoa) biết rằng mình nguy hiểm đối với phụ nữ.
Chàng không phô trương những chiến công bởi vì chàng không cần phải làm thế. Chàng biết đàn ông và phụ nữ đâu đâu cũng bàn tán về chàng, và trên thực tế, chàng thà rằng họ đừng xì xào gì về chàng thì hơn. Chàng biết chàng là ai và chàng đã làm gì; những trò kể lể chi tiết, đối với chàng, thật rườm rà.
Chàng không cư xử như một tên ngốc bởi lý do đơn giản là chàng đâu phải thằng ngốc (không ngốc hơn những gì người ta trông chờ ở tất cả thành viên thuộc giới tính nam). Chàng ít kiên nhẫn với những nhược điểm của xã hội, và thành thật mà nói, đa phần là Tác Giả Đây chẳng thể nói rằng nàng đổ lỗi cho chàng được.
Và nếu cái đó không miêu tả được ngài Tử tước Bridgerton - rõ ràng là người độc thân đáng khao khát nhất của mùa vũ hội năm nay - đến mức hoàn hảo, thì Tác Giả Đây nên ngừng nghề viết ngay lập tức. Câu hỏi duy nhất là: liệu năm 1814 có phải là năm chàng cuối cùng cũng chịu đầu hàng trước niềm hạnh phúc tuyệt vời của hôn nhân?
Tác Giả Đây Nghĩ Là...
Không.
THỜI BÁO XÃ HỘI CỦA PHU NHÂN WHISTLEDOWN, 20 THÁNG TƯ 1814
“Làm ơn đừng nói với chị,” Kate Sheffield nói với căn phòng rộng lớn, “rằng bà ta lại viết về Tử tước Bridgerton.”
Cô em cùng cha khác mẹ của cô, Edwina, nhỏ hơn gần bốn tuổi, nhìn lên từ sau tờ báo một trang. “Làm sao chị biết?”
“Em đang cười khúc khích như một người điên đấy thôi.”
Quả là Edwina có cười khúc khích thật, làm rung cả chiếc ghế sofa thêu hoa màu xanh mà họ đang ngồi.
“Thấy chưa?” Kate nói, tặng cho em gái một cú thúc vào cánh tay. “Em lúc nào chẳng cười khúc khích khi bà ta viết về mấy gã ma cà bông đáng ghét ấy.” Nhưng Kate lại cười toét miệng. Cô rất thích trêu chọc em gái. Với ý tốt, tất nhiên.
Mary Sheffield, mẹ của Edwina và là mẹ kế của Kate đã gần tám năm nay, liếc lên từ mấy thứ đồ thêu và đẩy cặp kính lên cao trên sống mũi. “Hai đứa cười cái gì đấy?”
“Chị Kate đang nổi điên vì Phu nhân Whistledown lại viết về ngài tử tước phóng đãng đó,” Edwina giải thích.
“Chị không nổi điên,” Kate nói, dù không ai lắng nghe.
“Tử tước Bridgerton?” bà Mary lơ đãng hỏi.
Edwina gật đầu. “Vâng.”
“Bà ta bao giờ chẳng viết về anh ta.”
“Con nghĩ bà ấy chỉ thích viết về những kẻ ăn chơi trác táng nói chung,” Edwina bình luận.
“Tất nhiên là cô ta thích viết về mấy kẻ ăn chơi trác táng,” Kate vặn lại. “Nếu bà ta viết về đám người chán ngắt, thì làm gì có ai mua tạp chí của bà ta.”
“Không phải thế,” Edwina đáp. “Tuần trước bà ấy mới viết về chúng ta đó thôi, và Chúa biết chúng ta đâu phải là những người thú vị nhất London.”
Kate mỉm cười trước sự ngây thơ của em gái. Kate và bà Mary có thể không phải là những người thú vị nhất London, nhưng Edwina, với mái tóc màu vàng bơ và đôi mắt xanh trong đến sững sờ, đã được vinh danh là Cô Gái Đẹp Nghiêng Nước Nghiêng Thành của năm 1814. Kate, mặt khác, với mái tóc và đôi mắt cùng mang một màu nâu giản dị, thường được nhắc đến như là “Chị gái lớn của Cô Gái Đẹp Nghiêng Nước Nghiêng Thành”.
Kate ngờ rằng người ta còn gọi cô bằng những biệt danh tệ hơn. Ít nhất thì chưa ai bắt đầu gọi cô là “Cô chị già của Cô Gái Đẹp Nghiêng Nước Nghiêng Thành.” Điều đó gần với sự thật hơn nhiều so với những gì mà bất cứ người nào nhà Sheffield chịu thừa nhận. Ở tuổi hai mươi (gần như là hai mươi mốt, nếu người ta thành thật một cách tỉ mỉ về điều đó), Kate đã phần nào quá lứa quá thì khi tận hưởng mùa vũ hội đầu tiên ở London.
Nhưng thực sự chẳng có lựa chọn nào khác. Nhà Sheffield chưa bao giờ giàu có ngay cả khi cha Kate còn sống, và từ khi ông qua đời vào năm năm trước, họ đã buộc phải tiết kiệm nhiều hơn nữa. Hẳn nhiên là họ chưa đến mức phải vào nhà tế bần, nhưng họ phải lo từng đồng và căn cơ từng bảng.
Tài chính bị thu hẹp, nhà Sheffield chỉ có thể sắp xếp một khoản tiền cho chuyến đi duy nhất đến London. Thuê một ngôi nhà - và một cỗ xe - cùng vài ba người hầu vừa đủ cho mùa vũ hội quả là tốn kém. Họ không thể xoay sở tiền cho hai chuyến đi. Bởi lẽ, họ sẽ phải thắt lưng buộc bụng suốt năm năm ròng để có thể lo cho chuyến đi đến London này. Và nếu các cô gái không thành công ở Hội Chợ Hôn Nhân... ừ thì, chả ai đẩy họ vào tù vì nợ nần đâu, nhưng họ sẽ phải đón chờ cuộc sống lặng lẽ trong cảnh nghèo khó thanh đạm dưới một mái nhà tranh nhỏ nhắn đáng yêu ở vùng Somerset.
Và vì vậy hai cô gái đành phải tham gia vũ hội trong cùng một năm. Họ quyết định rằng thời gian hợp lý nhất là khi Edwina vừa bước sang tuổi mười bảy và Kate sắp hai mươi mốt. Bà Mary sẽ muốn chờ cho đến khi Edwina mười tám và chín chắn hơn một chút, nhưng đến lúc ấy Kate sẽ gần hai mươi hai, và trời ơi, lúc đó ai sẽ cưới cô chứ?
Kate cười nhăn nhó. Cô còn không muốn tham dự mùa vũ hội. Cô đã biết ngay từ đầu rằng mình không thuộc dạng sẽ thu hút sự chú ý mọi người. Cô không đủ xinh xắn để che lấp sự thiếu hụt của của hồi môn, và cô chưa bao giờ học cách cười điệu, nói chuyện dịu dàng, đi đứng duyên dáng, hay làm tất cả những việc mà các cô gái khác dường như đều biết cách làm ngay từ trong nôi. Ngay cả Edwina, người chẳng có một cái xương ranh mãnh nào trong người, không hiểu sao cũng biết phải đi, phải đứng và phải thở dài thế nào sao cho đàn ông chạy vù tới chỉ để có cái vinh dự được đưa nàng sang đường.
Ngược lại, Kate luôn đứng với đôi vai thẳng và cao, cô không thể ngồi yên nếu cuộc sống của mình phụ thuộc vào điều đó, và cứ đi như đang chạy đua - mà tại sao lại không chứ? Cô luôn tự hỏi mình như vậy. Nếu một người đang định đến đâu đó, sao họ không đến đó thật nhanh chứ?
Còn đối với mùa vũ hội ở London, cô thậm chí còn không thích thành phố này lắm. Ôi, cô đang có một khoảng thời gian vui vẻ, và cô đã được gặp nhiều người tử tế, nhưng một mùa vũ hội ở London xem ra là một sự phung phí tiền bạc khủng khiếp đối với một cô gái sẽ rất vui lòng được ở lại nông thôn, tìm kiếm một anh chàng hiểu biết lý lẽ để mà cưới.
Nhưng bà Mary không chấp nhận điều gì như thế. “Khi ta cưới cha con,” bà nói, “ta đã thề sẽ yêu thương con và đem đến cho con tất cả sự chăm sóc và yêu thương ta sẽ dành cho con ruột của ta.”
Kate vừa cố xoay xở thốt ra được một từ “Nhưng…” thì bà Mary đã lại tiếp tục, “ta có trách nhiệm với người mẹ tội nghiệp của con, cầu Chúa cho bà ấy được yên nghỉ, và một phần của trách nhiệm đó là thấy con lấy được một tấm chồng, sống hạnh phúc và ổn định.”
“Con có thể sống hạnh phúc và ổn định ở thôn quê mà,” Kate trả lời.
Bà Mary đối lại, “Ở London có nhiều đàn ông để lựa chọn hơn.”
Rồi Edwina cũng tham gia vào, khăng khăng nói rằng cô sẽ vô cùng khốn khổ nếu không có Kate, và bởi vì Kate không bao giờ chịu được khi nhìn thấy em gái không vui, nên số phận cô đã được quyết.
Và thế là cô ở đây - ngồi trong một căn phòng khách hơi cũ, trong một căn nhà thuê ở phần rìa London mà gần như trông vẫn hợp thời, và...
Cô nhìn quanh một cách tinh nghịch...
Và cô sắp giật tờ tạp chí khỏi tay em gái.
“Chị Kate!” Edwina kêu ré lên, mắt trợn tròn nhìn vào mảnh báo nhỏ hình tam giác còn lại giữa ngón cái và ngón trỏ. “Em chưa xong mà!”
“Em đọc mãi rồi còn gì,” Kate trả lời với nụ cười ngoác miệng táo tợn. “Vả lại, chị muốn coi xem hôm nay bà ta viết gì về Tử tước Bridgerton.”
Đôi mắt của Edwina, vốn thường được ví như mặt hồ tĩnh lặng, ánh lên quỷ quái. “Chị quan tâm đến ngài tử tước kinh khủng đấy, Kate ạ. Có điều gì chị không nói với mẹ và em đúng không?”
“Đừng có ngớ ngẩn thế. Chị còn không biết anh ta nữa kia. Mà nếu có biết, chắc chị sẽ chạy về hướng ngược lại. Anh ta đích xác là loại đàn ông mà hai chúng ta nên tránh xa bằng mọi giá. Anh ta rất có thể còn quyến rũ được cả một tảng băng ấy chứ.”
“Kate!” bà Mary kêu lên.
Kate nhăn nhó. Cô đã quên mất rằng mẹ mình đang lắng nghe. “Chà, đó là sự thật,” cô nói thêm. “Con nghe nói anh ta có nhiều người tình hơn cả số ngày sinh nhật của con nữa kia.”
Bà Mary nhìn cô vài giây, như thể đang cố quyết định xem mình có muốn trả lời hay không, và cuối cùng bà nói, “Không phải là chủ đề thích hợp cho con nghe đâu, nhưng đàn ông nhiều người là thế đấy.”
“Ôi.” Kate đỏ mặt. Chẳng mấy ai đáng thương bằng người đang cố đưa ra một luận điểm quan trọng thì bị gạt phắt đi. “Chà, thế thì, anh ta có gấp đôi người khác. Dù sao thì anh ta cũng sống quá buông thả so với hầu hết những người đàn ông khác, và không phải loại người Edwina nên cho phép tán tỉnh mình.”
“Chính con cũng đang tham dự mùa vũ hội đấy,” bà Mary nhắc nhở.
Kate chiếu vào bà Mary một cái nhìn khó chịu nhất. Họ đều biết nếu ngài tử tước có chọn một người nhà Sheffield để mà tán tỉnh, thì đó không phải là Kate.
“Em nghĩ chả có gì trong bài báo đó có thể thay đổi quan điểm của chị đâu,” Edwina nhún vai nói đồng thời nghiêng người về phía Kate để nhìn tờ tạp chí. “Bà ấy không nói về anh ta nhiều lắm đâu, thật đấy. Đó giống như là một bài thảo luận về mấy kẻ trác táng hơn.”
Đôi mắt Kate lướt khắp hàng chữ in. “Hừmmmmm,” cô nói, đó là cách cô vẫn thường biểu hiện nỗi khinh bỉ. “Chị cá là bà ta đúng. Anh ta chắc sẽ không đi đào bới năm nay đâu.”
“Con luôn nghĩ Phu nhân Whistledown nói đúng mà,” bà Mary mỉm cười lẩm bẩm.
“Thường là bà ấy đúng,” Kate trả lời. “Người phải thừa nhận, với một nhà báo lá cải, bà ấy đã cho thấy một trí tuệ đáng chú ý đó chứ. Cố nhiên là bà ấy cũng đã đúng trong cách nhìn nhận về những người mà con từng gặp ở London này.”
“Con nên tự đưa ra phán xét của mình, Kate ạ,” bà Mary nói nhẹ nhàng. “Sẽ là hạ thấp chính mình khi đưa ra ý kiến của bản thân dựa vào một tờ báo lá cải.”
Kate biết mẹ kế của cô nói đúng, nhưng cô không muốn thừa nhận điều đó, và vì vậy cô chỉ buông ra một tiếng “Hừmmmmm” nữa rồi quay trở lại với tờ tạp chí trong tay.
Tạp chí Whistledown, không nghi ngờ gì, là tờ báo được quan tâm nhất London. Kate không chắc chắn lắm từ bao giờ tờ báo lá cải này xuất hiện - khoảng năm ngoái, cô nghe như vậy - nhưng có một thứ chắc chắn. Dù Phu nhân Whistledown có là ai đi nữa (và không ai thực sự biết bà ta là ai), bà ta cũng phải là một người có quan hệ rộng. Chắc chắn là như thế. Không một kẻ hay xía mũi vào chuyện của người khác nào có thể tiết lộ được tất cả những thông tin mà cô ta đã in trong tờ báo của mình vào các ngày thứ Hai, thứ Tư và thứ Sáu.
Phu nhân Whistledown luôn có những chuyện người-ta-nói nóng hổi nhất, và không như các nhà báo khác, bà ta không hề lưỡng lự khi dùng tên đầy đủ của người được nhắc đến. Như nhận định tuần trước, ví dụ, rằng Kate trông không hợp với màu vàng, cô ta đã viết, rõ ràng như ban ngày: “Màu vàng khiến cho Quý cô Katharine Sheffield tóc sẫm trong như một cây thủy tiên cháy sém.”
Kate không phiền lòng vì câu sỉ nhục đó. Cô đã nghe nói nhiều hơn một lần rằng người ta không thể tự xem là “đạt” chừng nào chưa bị Phu nhân Whistledown sỉ nhục. Ngay cả Edwina, vốn được coi là một thành công rực rỡ của xã hội trong mắt mọi người, cũng phải tỏ ra ghen tỵ vì Kate đã được chỉ đích danh trong một lời sỉ nhục.
Và mặc dù không mặn mà lắm với chuyện ở lại London để tham dự vũ hội, Kate hiểu rằng nếu đã tham gia vào vòng quay của xã hội thì tốt nhất là cô không nên trở thành một nỗi thất bại không thể thất bại hơn. Nếu việc bị sỉ nhục trên một tờ báo lá cải là dấu hiệu duy nhất về sự thành công của cô, vậy thì, cứ để thế đi. Kate sẽ giành lấy chiến thắng khi nào có thể.
Bây giờ nếu Penelope Featherington khoe khoang rằng cô ấy đã từng bị so sánh với một quả cam chín rục trong chiếc váy sa tanh chói lóa, thì Kate có thể vẫy tay và thở dài rất kịch, “À, ừ, chị còn phải làm một cây thủy tiên cháy sém đây này.”
“Một ngày nào đó,” bà Mary thông báo, lại đưa ngón trỏ lên đẩy kính, “sẽ có người tìm ra nhân dạng của người phụ nữ đó, khi ấy bà ta sẽ gặp rắc rối lớn cho mà xem.”
Edwina nhìn mẹ với vẻ thích thú. “Mẹ thật sự nghĩ ai đó sẽ truy tầm bà ấy sao? Bà ấy đã sắp xếp để giữ bí mật của mình hơn một năm rồi.”
“Không có thứ gì to tát như thế có thể mãi mãi là bí mật được cả,” bà Mary trả lời. Bà chích cây kim vào mẫu thêu, kéo một đoạn chỉ dài màu vàng xuyên qua lớp vải. “Nhớ lời mẹ đấy. Chuyện sẽ bị lộ tẩy dù sớm hay muộn, và một khi nó đã lan ra thì một vụ bê bối mà các con chưa bao giờ thấy sẽ bùng nổ trong toàn thành phố.”
“À, nếu con mà biết bà ấy là ai,” Kate thông báo, lật mặt sau tờ báo, “có thể con sẽ làm bạn với bà ấy. Bà ấy thật thú vị kinh khủng. Và dù mọi người có nói gì thì bà ấy hầu như lúc nào cũng đúng cả.”
Vừa lúc đó, Newton, chú chó corgi béo phệ của Kate, lao vào phòng.
“Không phải con chó đó nên ở ngoài lúc này sao?” bà Mary hỏi. Sau đó bà hét lên “Kate!” khi chú chó ngoặt tới chân bà và thở phì phì như thể đang chờ một nụ hôn.
“Newton, lại đây ngay lập tức,” Kate ra lệnh.
Con chó nhìn bà Mary đầy mong mỏi, rồi núng nính đi đến chỗ Kate, nhảy hụp lên sofa, và đặt bộ móng trước của nó lên lòng cô.
“Anh chàng đó đang làm cho chị dính đầy lông kìa,” Edwina nói.
Kate nhún vai, vuốt ve bộ lông màu caramen dày cộm của con chó. “Chị không phiền mà.”
Edwina thở dài, nhưng cô vẫn vươn tới tặng cho Newton một cái vỗ nhẹ. “Bà ấy còn nói gì nữa không?” cô hỏi, nghiêng người tới trước với vẻ thích thú. “Em chưa bao giờ đọc được tới trang thứ hai.”
Kate cười mỉm trước lời châm biếm của em gái. “Không nhiều. Một chút về ngài Công tước và Nữ Công tước Hasting, họ vừa đến thành phố vào đầu tuần này, một danh sách về thức ăn tại vũ hội của Phu nhân Danbury mà cô ấy xuýt xoa là “ngon đến kinh ngạc”, và một bài miêu tả không hay ho lắm về bộ váy của bà Featherington thứ Hai tuần trước.”
Edwina cau mày. “Bà ấy hình như thích châm chích vào nhà Featherington hơi nhiều đấy.”
“Chẳng có gì đáng ngạc nhiên,” bà Mary nói, đặt đồ thêu xuống rồi đứng dậy. “Người phụ nữ đó sẽ loay hoay không biết lựa chọn màu váy nào thích hợp cho mấy cô con gái đâu, nếu có cả một cái cầu vồng quấn quanh cổ bà ấy.”
“Mẹ!” Edwina thốt lên.
Kate bịt tay lên miệng, cố nín cười. Bà Mary hiếm khi đưa ra quan điểm cá nhân, nhưng khi bà đã phát biểu thì ý kiến của bà lúc nào cũng thật độc đáo.
“Chà, thật thế còn gì. Bà ta cứ mặc đồ màu cam cho cô con gái út. Trong khi bất cứ ai cũng có thể thấy cô gái tội nghiệp đó cần màu xanh dương hoặc xanh lá bạc hà.”
“Người đã mặc cho con đồ màu vàng đấy chứ,” Kate nhắc nhở bà.
“Và ta rất lấy làm tiếc đã làm thế. Việc đó dạy cho ta một điều là nên lắng nghe cô gái bán hàng. Ta không bao giờ nên nghi ngờ óc phán xét của mình mới phải. Chúng ta chỉ cần cắt ngắn bớt chiếc váy đó cho Edwina mặc thôi.”
Edwina thấp hơn Kate một cái đầu, và gầy hơn Kate ở một vài chỗ, nên đây sẽ không phải là vấn đề.
“Khi người làm thế,” Kate nói, quay sang em gái, “hãy nhớ cắt bỏ mấy cái diềm xếp nếp trên tay áo. Nó diêm dúa khủng khiếp. Và ngứa ngáy nữa. Sém chút nữa con đã định xé nó ra ngay tại buổi dạ vũ của Phu nhân Ashbourne.”
Bà Mary trợn tròn mắt. “Ta ngạc nhiên và biết ơn lắm vì con đã biết kiềm chế bản thân mình đấy.”
“Con ngạc nhiên nhưng không biết ơn,” Edwina nói với một nụ cười tinh quái. “Chỉ cần nghĩ đến chuyện Phu nhân Whistledown sẽ thích thú đến thế nào khi chứng kiến chuyện đó xem.”
“À, ừ,” Kate toét miệng cười, đáp. “Chị có thể hình dung ra rồi. ‘Cây thuỷ tiên bị cháy sém đã tự ngắt rụng những cánh hoa của mình’.”
“Mẹ lên lầu đây,” bà Mary thông báo, lắc đầu trước trò cười của con gái. “Đừng quên tối nay chúng ta có một buổi vũ hội đấy. Mấy đứa có thể sẽ muốn ngủ một tí trước khi đi. Chắc chắn đêm nay sẽ lại là một đêm về muộn nữa.”
Kate và Edwina gật đầu và rì rầm hứa trong khi bà Mary thu gom đồ thêu của mình rồi rời phòng. Bà vừa rời khỏi, Edwina đã quay sang hỏi Kate, “Chị đã quyết định sẽ mặc gì tối nay chưa?”
“Màu xanh khói, chị nghĩ thế. Chị nên mặc màu trắng, chị biết, nhưng sợ là nó không hợp với chị.”
“Nếu chị không mặc màu trắng,” Edwina nói đầy nghĩa khí, “thì em cũng không. Em sẽ mặc bộ muslin xanh của em.”
Kate gật đầu tán thưởng trong lúc liếc lại vào báo trong tay, cố giữ cho Newton không bị ngã xuống, anh chàng đã lăn ngửa ra và đang ngọ nguậy đòi được gãi bụng. “Chỉ mới tuần trước thôi ngài Berbrooke đã chẳng bảo em là thiên thần trong bộ cánh màu xanh còn gì. Nhất là nó lại rất hài hòa với màu mắt của em.”
Edwina chớp mắt ngạc nhiên. “Ngài Berbrooke nói vậy sao? Với chị ư?”
Kate nhìn lại. “Tất nhiên. Tất cả những anh chàng bảnh bao của em đều cố gắng đưa lời tán tụng thông qua chị.”
“Họ làm thế ư? Để làm gì chứ?”
Kate khẽ cười. “Nào, ồ, Edwina, đó có thể là vì em đã tuyên bố cho toàn thể khán giả của buổi dạ hội nhà Smythe-Smyth là em sẽ không bao giờ kết hôn mà không có sự đồng tình của bà chị đấy.”
Đôi má Edwina hơi ửng hồng. “Đâu phải là toàn thể khán giả,” cô khẽ lẩm bẩm.
“Chắc chắn là thế đấy. Tin tức lan truyền nhanh hơn cả lửa cháy trên mái nhà nữa kìa. Ngay cả khi không ở trong phòng lúc đó, chỉ hai phút sau chị đã được nghe tin.”
Edwina khoanh tay và buột ra một tiếng “hừmmmmm” nghe như giọng điệu chị gái lớn của mình. “À, đó là sự thật mà, và em không quan tâm xem ai biết điều đó. Em biết mọi người kỳ vọng rằng em sẽ có một cuộc hôn nhân rực rỡ và tráng lệ, nhưng em không nhất thiết phải cưới người sẽ đối xử không tốt với em. Bất cứ ai có khả năng chịu đựng ngoan cường để gây được ấn tượng với chị thì hẳn là đều chấp nhận được.”
“Vậy ra chị khó bị gây ấn tượng lắm sao?”
Hai chị em nhìn nhau, rồi đồng thanh trả lời, “Phải.”
Nhưng khi Kate cười với Edwina, cảm giác có lỗi cứ lớn dần lên trong cô. Cả ba người nhà Sheffield đều biết rằng Edwina sẽ chính là người đốn ngã một quý ông hoặc kết hôn với một gia tài. Edwina sẽ chính là người bảo đảm cho gia đình cô không phải sống trong cảnh nghèo khó bần hàn. Edwina là một mỹ nhân, trong khi Kate thì...
Kate là Kate.
Kate không phiền lòng. Sắc đẹp của Edwina chỉ đơn giản là trời phú. Có vài sự thật mà Kate từ lâu đã chấp nhận. Cô sẽ không bao giờ học nhảy điệu Valse mà không cố gắng là người dẫn; cô luôn sợ sấm chớp, dù đã bao lần cô tự nhủ mình thật ngu ngốc; và bất kể cô mặc gì, cô bới tóc ra sao hay véo má mình bao nhiêu lần, cô cũng không bao giờ xinh đẹp được như Edwina.
Bên cạnh đó, Kate không chắc mình có thích tất cả những sự quan tâm mà Edwina nhận được hay không. Mà không, cô bắt đầu nhận ra mình sẽ chẳng hề hứng thú với trách nhiệm phải kết hôn với một đám giàu có để lo liệu cho mẹ và em gái.
“Edwina,” Kate nói nhẹ nhàng, mắt cô ánh lên vẻ nghiêm túc, “em không phải kết hôn với người em không thích. Em biết điều đó mà.”
Edwina gật đầu, bỗng dưng trông như thể sắp khóc.
“Nếu em thấy ở London chẳng có quý ông nào đủ tốt cho em, vậy thì cứ thế mà bỏ đi thôi. Chúng ta chỉ cần quay về Somerset và tận hưởng sự bầu bạn của chúng ta. Dù sao đi nữa thì chẳng có ai mà chị thích hơn cả.”
“Em cũng thế,” Edwina thì thầm.
“Còn nếu em tìm được một người đàn ông làm em say đắm, thì bà Mary và chị sẽ rất hạnh phúc. Em cũng không nên lo lắng về chuyện bỏ lại mẹ và chị. Mẹ và chị sẽ sống vui vẻ bên nhau thôi.”
“Chị cũng có thể tìm được ai đó để kết hôn mà,” Edwina chỉ ra.
Kate cảm thấy miệng mình khẽ nhếch thành một nụ cười. “Chắc thế,” cô cho phép mình nói câu này, dù biết điều đó không chắc lắm. Cô không muốn làm gái già suốt đời, nhưng cô nghi ngờ việc mình sẽ tìm được một người chồng ở London này. “Có thể một trong số những người theo đuổi em điên cuồng sẽ quay sang chị khi nhận ra không thể với được tới em,” cô trêu.
Edwina đập gối vào người cô. “Đừng có ngốc thế.”
“Chị đâu có ngốc!” Kate phản đối. Và quả đúng vậy. Thành thật mà nói, đối với cô đó là cách khả dĩ nhất để cô có thể thực sự tìm được một người chồng trong thành phố.
“Chị có biết kiểu đàn ông nào em muốn kết hôn không?” Edwina hỏi, đôi mắt trở nên mơ màng.
Kate lắc đầu.
“Một học giả.”
“Một học giả ấy à?”
“Một học giả,” Edwina khẳng định lại.
Kate hắng giọng. “Chị không chắc em sẽ tìm thấy nhiều người như thế ở thành phố trong mùa vũ hội này đâu.”
“Em biết,” Edwina khẽ bật ra một tiếng thở dài. “Nhưng sự thật là - chị biết điều này ngay cả khi em không nói ra với mọi người rồi đấy - em khá là ham đọc sách. Với em, dành cả ngày trong thư viện còn thích hơn là đi lang thang trong công viên Hyde. Em nghĩ mình nên tận hưởng cuộc sống với một người đàn ông cũng thích thú với nghiệp theo đuổi học vấn.”
“Đúng rồi. Ưmmmm...” Đầu óc Kate làm việc điên cuồng. Nhiều khả năng Edwina cũng sẽ không tìm được một học giả ở Somerset. “Em biết không, Edwina, khó mà tìm được cho em một học giả đích thực ở ngoài các thị trấn tập trung nhiều trường đại học. Có lẽ em phải chấp nhận một người thích đọc và học hành như em thôi.”
“Thế cũng được,” Edwina vui vẻ nói. “Em sẽ rất hài lòng với một học giả nghiệp dư.”
Kate thở dài nhẹ nhõm. Chắc chắn họ có thể tìm được ai đó ở London này thích đọc sách chứ.
“Và chị biết gì không?” Edwina nói thêm. “Người ta thật sự không thể nói về một quyển sách chỉ qua cái bìa. Mọi người đều là học giả nghiệp dư cả. Sao chứ, ngay cả Tử tước Bridgerton mà Phu nhân Whistledown cứ nói mãi đó cũng có thể là một học giả từ trong tim lắm chứ.”
“Tự cắn lưỡi em đi, Edwina. Em sẽ chẳng dính dáng gì đến Tử tước Bridgerton hết. Ai chẳng biết anh ta là kẻ chơi bời phóng đãng tệ nhất. Thật ra anh ta là kẻ chơi bời phóng đãng tệ nhất mọi thời đại. Trên đất London. Trên đất nước này!”
“Em biết, em chỉ lấy anh ta làm ví dụ thôi. Vả lại, chưa chắc anh ta đã chọn cô dâu trong năm nay mà. Phu nhân Whistledown đã nói thế, mà chị đã nói rằng bà ấy hầu như lúc nào cũng đúng mà.”
Kate vỗ lên cánh tay em gái. “Đừng lo. Chúng ta sẽ tìm cho em một người chồng thích hợp. Nhưngkhông - không không không không không phải là Tử tước Bridgerton!”
Vào đúng lúc đó, đối tượng được nhắc tới trong cuộc trò chuyện của họ đang thư giãn tại câu lạc bộ White với hai trong số ba em trai của anh, nhấm nháp một ly rượu vào chiều muộn.
Anthony Bridgerton dựa vào ghế da, nhìn ly scotch với vẻ mặt đăm chiêu trong lúc xoay xoay ly rượu, rồi tuyên bố, “Anh đang nghĩ đến việc kết hôn.”
Benedict Bridgerton, cậu em đang nuông theo thói quen mà mẹ cậu rất ghét - đẩy ngả ghế ra hai chân sau với cái kiểu đang say xỉn - bỗng té nhào.
Colin Bridgerton mắc nghẹn.
May mắn cho Colin, Benedict đã ngồi trở lại vừa kịp lúc để vỗ thật mạnh vào lưng cậu, khiến quả ô liu xanh bay vọt sang bên kia bàn.
Nó trượt qua tai Anthony trong đường tơ kẽ tóc.
Anthony để sự sỉ nhục này qua một bên mà không bình luận gì. Anh biết quá rõ rằng lời tuyên bố đột ngột của anh mang đến một ngạc nhiên nho nhỏ.
Chà, còn hơn cả nho nhỏ ấy chứ. “Vô cùng,” “tận cùng”, và “tột cùng” là những từ nảy ra trong đầu anh.
Anthony biết mình không phù hợp với hình ảnh một người đàn ông đang có ý định ổn định cuộc sống. Anh đã sống cả chục năm qua như một kẻ trác táng hạng nhất, tìm đến khoái lạc ở bất cứ nơi nào. Bởi anh biết rõ cuộc đời rất ngắn và dĩ nhiên anh phải tận hưởng nó. Ồ, anh có một số quy tắc danh dự nhất định. Anh chưa bao giờ dây dưa với các cô gái con nhà gia giáo. Bất cứ ai có quyền đòi hỏi một cuộc hôn nhân đều nằm ngoài mối quan tâm của anh.
Là anh trai của bốn cô em gái, trong chừng mực nào đó, Anthony kính trọng danh tiếng tốt đẹp của những phụ nữ có giáo dục. Anh suýt nữa đấu súng tay đôi vì một trong bốn cô em gái, chỉ vì có kẻ dám coi thường danh dự của cô. Và với ba cô kia... anh thầm thừa nhận mình đã toát mồ hôi lạnh khi thoáng nghĩ tới chuyện họ dính líu đến một người đàn ông có danh tiếng như anh.
Không, anh nhất định sẽ không rắp tâm chiếm đoạt em gái của các quý ông trẻ khác.
Nhưng với những phụ nữ khác - các cô góa phụ, mấy ả diễn viên luôn biết những gì họ muốn và những gì họ đang dính vào - anh cứ việc say sưa tận hưởng. Từ cái ngày anh rời Oxford và đi về hướng Tây tới London, lúc nào anh cũng cặp kè với một cô nàng nào đó.
Đôi lúc, anh nhăn nhó nghĩ, anh đã có tới hai.
Anh cưỡi ngựa trong hầu hết các cuộc đua mà xã hội bày ra cho anh, anh đấm bốc tại câu lạc bộ Quý ông Jackson, và chơi bài thắng nhiều hơn số lần anh có thể đếm. (Anh cũng thua đôi ba bận, nhưng anh không thèm đếm xỉa). Anh dành cả mười năm tuổi trẻ để chạy theo hoan lạc, cái thú vui vốn chỉ bị kiềm chế bởi ý thức trách nhiệm to lớn của anh đối với gia đình mình.
Cái chết của Tử tước Edmund Bridgerton đến đột ngột không ai ngờ tới; ông đã không có cơ hội nào để nói lời trăn trối cuối cùng với con trai cả trước khi qua đời. Nhưng nếu ông có cơ hội, Anthony chắc chắn rằng ông sẽ yêu cầu anh chăm sóc mẹ và các em với cùng lòng tận tâm và tình yêu thương mà cha anh đã dành cho họ.
Và thế là ngoài thời gian tiệc tùng, đua ngựa, anh gửi các em trai đến trường Eton và Oxford, tới dự buổi độc tấu piano của các em gái (thật không dễ dàng gì; ba trong số bốn đứa bị mù âm nhạc), và luôn thận trọng xem xét vấn đề tài chính của gia đình. Với bảy đứa em cả thảy, anh biết bổn phận của mình là phải đảm bảo đủ tiền để lo cho tương lai của các em.
Khi tuổi ba mươi đã cận kề, anh nhận ra mình đang dành ngày càng nhiều thời gian cho di sản và gia đình mình và ngày càng ít thời gian cho những ham mê suy đồi và hoan lạc. Và anh nhận ra mình thích thế. Anh vẫn cặp kè, nhưng không cặp kè nhiều người cùng lúc nữa, và anh khám phá ra rằng mình không còn cảm thấy cần đua ngựa, hay lân la mãi ở một buổi tiệc chỉ để thắng ván bài cuối cùng.
Danh tiếng của anh, tất nhiên, vẫn ở lại với anh. Nhưng anh không thấy phiền vì điều đó. Chắc chắn việc được vinh danh như một kẻ ăn chơi trác táng đáng quở trách nhất nước Anh cũng có lợi ích nào đó chứ. Được xem là mối đe dọa toàn cầu, chẳng hạn thế.
Thế càng tốt chứ sao.
Nhưng giờ đã đến lúc kết hôn. Anh phải ổn định, phải có một đứa con trai. Rốt cuộc thì anh vẫn có một tước hiệu phải truyền lại. Anh cũng cảm nhận thấy một nỗi nuối tiếc nhức nhối - và có thể cả một chút tội lỗi nữa - về sự thật là anh không chắc mình sẽ sống được để nhìn con trai trưởng thành. Nhưng anh có thể làm gì chứ? Anh là con đầu của một người con đầu của một người con đầu của dòng họ Bridgerton tám đời. Anh gánh trên vai trọng trách đơm hoa kết quả của cả dòng tộc.
Bên cạnh đó, anh cũng được an ủi đôi chút khi biết rằng mình có ba cậu em có khả năng và biết quan tâm. Họ sẽ bảo đảm cho con trai anh lớn lên với tình yêu và lòng tôn kính mà mỗi người nhà Bridgerton được hưởng. Các em gái anh sẽ chiều chuộng cậu bé, còn mẹ anh thì có thể sẽ làm hư nó...
Anthony thoáng mỉm cười khi nghĩ về gia đình lớn lúc nào cũng ồn ào của anh. Con trai anh không cần có cha mà vẫn sẽ được yêu thương chu đáo.
Và dù anh có sinh bao nhiêu con đi nữa - à, chắc hẳn chúng sẽ không nhớ anh sau khi anh ra đi. Chúng sẽ còn nhỏ, chưa đủ trưởng thành. Anh nhận thấy trong số mấy anh em anh, anh - đứa con cả - là người bị tác động mạnh nhất bởi cái chết của cha.
Anthony uống cạn một ngụm scotch rồi duỗi thẳng vai, đẩy những suy nghĩ không vui ra khỏi đầu. Anh cần phải tập trung vào việc quan trọng trước mắt, đó là, tìm kiếm một người vợ.
Là một người sáng suốt và biết cách tổ chức, anh đã lập nên trong đầu một danh sách những yêu cầu đối với vợ mình. Trước tiên, cô ấy phải có sức hấp dẫn nhất định. Cô ấy không cần phải là một người đẹp đến mê say (mặc dù được thế thì rất tuyệt), nhưng nếu phải ngủ với cô, anh nghĩ một chút hấp dẫn hẳn sẽ làm cho việc đó dễ chịu hơn.
Thứ hai, cô ấy không thể là hạng ngu ngốc. Cái này, Anthony trầm ngâm, có thể sẽ là yêu cầu khó thực hiện nhất. Anh không hoàn toàn bị ấn tượng bởi trí tuệ của các cô gái trẻ ở London. Sai lầm gần đây nhất anh phạm phải là lôi kéo một cô gái trẻ vừa ra trường vào cuộc trò chuyện, cô ta đã không thể bàn luận gì khác ngoài thức ăn (lúc đó cô ta có một đĩa dâu tươi trong tay) và thời tiết (mà cô ta còn không hiểu nữa kia; khi Anthony hỏi cô ta có nghĩ thời tiết sẽ trở nên khắc nghiệt không, cô ta đã trả lời, “Em chắc chắn là mình không biết. Em chưa bao giờ đến Clement.”
Anh có thể tránh trò chuyện với một cô vợ kém cỏi, nhưng anh không muốn những đứa con ngu ngốc.
Thứ ba - và đây là điều quan trọng nhất - cô ấy không thể là một ai đó mà anh có thể yêu thật lòng.
Nguyên tắc này không thể bị phá vỡ trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Anh không hẳn là một kẻ hoài nghi; anh biết tình yêu đích thực có tồn tại. Bất cứ ai từng ở trong cùng một căn phòng với cha mẹ anh đều biết rằng tình yêu đích thực có tồn tại.
Nhưng tình yêu là một sự rầy rà mà anh muốn tránh. Anh không mong cuộc sống của mình bị viếng thăm bởi thứ phép màu kỳ diệu đó.
Và bởi đã quen với việc có được những gì mình muốn, không nghi ngờ gì chuyện sẽ tìm được một phụ nữ hấp dẫn, thông minh mà mình sẽ không bao giờ yêu. Chuyện đó thì khó gì chứ? Ngay cả khi cất công tìm kiếm tình yêu đích thực của đời mình thì chắc gì anh đã tìm được. Hầu hết đàn ông đều thế cả.
“Lạy Chúa lòng lành, Anthony, cái gì làm anh nhăn nhó đến thế? Không phải trái ô liu đó chứ. Em thấy rõ ràng nó còn chưa đụng vào anh mà.”
Giọng Benedict kéo anh ra khỏi mơ tưởng, Anthony bèn chớp mắt vài lần trước khi trả lời, “Không có gì. Không có gì hết.”
Tất nhiên anh đã không chia sẻ những suy nghĩ về ngày tận số của anh với bất cứ ai, ngay cả với các em. Đó không phải là loại chuyện mà người ta muốn thông báo. Chết tiệt, nếu có ai đó đến nói với anh điều tương tự, anh chắc chắn sẽ cười tới nỗi hắn văng ra khỏi cửa.
Nhưng không ai có thể hiểu được chiều sâu mối liên kết giữa anh và cha. Và không ai có thể hiểu được theo cái cách mà Anthony cảm nhận từ trong xương tủy rằng làm thế nào anh biết được mình sẽ không thể sống lâu hơn cha. Tử tước Edmund là tất cả đối với anh. Anh đã luôn khao khát trở thành một người đàn ông vĩ đại như cha, dẫu biết điều đó là không thể, nhưng anh vẫn cố gắng. Cố gắng để được hơn cha - trong mọi trường hợp - điều đó là không tưởng.
Cha của Anthony đơn giản là người đàn ông vĩ đại nhất mà anh từng biết, có lẽ là người đàn ông vĩ đại nhất từng sống trên trái đất. Việc nghĩ rằng mình có thể hơn được cha xem ra là sự ngạo mạn tột cùng.
Có điều gì đó đã xảy đến với anh vào cái đêm cha anh qua đời, khi anh ngồi lại trong phòng ngủ của cha mẹ với thi hài của cha, chỉ ngồi đó nhiều giờ, nhìn ngắm cha và cố gắng một cách tuyệt vọng để nhớ lại mọi thời khắc họ đã cùng chia sẻ. Những thứ nhỏ nhặt sẽ rất dễ bị lãng quên - như là Tử tước Edmund sẽ siết chặt cánh tay của Anthony ra sao khi anh cần sự động viên. Hoặc làm thế nào ông có thể trích dẫn từ trí nhớ bài “Sigh No More” của Balthazar trong vở kịch Much Ado About Nothing, không phải vì ông nghĩ nó thật ý nghĩa mà chỉ bởi vì ông thích nó.
Và cuối cùng khi Anthony ra khỏi căn phòng thì ánh bình minh đầu tiên đã tô hồng bầu trời, anh biết bằng cách nào đó ngày tháng của anh được đánh số, và được đánh số như ngày tháng của Tử tước Edmund.
“Phun nó ra đi,” Benedict nói, cắt ngang dòng suy nghĩ của anh một lần nữa. “Em sẽ không đưa anh một đồng cho những suy nghĩ của anh đâu, bởi vì em biết chúng không đáng giá đến chừng đó, nhưng anh đang nghĩ gì thế?”
Anthony đột nhiên ngồi thẳng người, quyết định phải chú ý vào vấn đề trước mắt. Rốt cuộc, anh cũng phải chọn lấy một cô dâu, và đó là một việc nghiêm túc. “Ai được xem là viên kim cương đắt giá của mùa vũ hội năm nay?” anh hỏi.
Mấy cậu em ngừng một lúc để nghĩ về điều đó, rồi Colin đáp, “Edwina Sheffield. Chắc chắn anh đã thấy cô ấy rồi. Hơi nhỏ nhắn, mái tóc vàng và đôi mắt xanh. Anh có thể thường xuyên thấy cô ấy ở giữa đám đông như cừu những kẻ tán tỉnh cô ấy.”
Anthony phớt lờ trước trò vui châm biếm của em trai, “Cô ta có não chứ?”
Colin chớp mắt, như thể câu hỏi một phụ nữ có não hay không là một câu hỏi chưa bao giờ được đặt ra cho anh vậy. “Ồ, em nghĩ là có. Có lần em nghe thấy cô ấy bàn luận về thần thoại học, và có vẻ như cô ấy nói đúng.”
“Tốt,” Anthony nói, đặt ly scotch xuống bàn cái “cách”. “Vậy thì anh sẽ cưới cô ta.”
Mua sách online tại Bookbuy và nhận nhiều ưu đãi
Đăng ký nhận bản tin
Đừng bỏ lỡ những tin nhắn ưu đãi độc quyền dành riêng cho bạn
NHẬN XÉT CỦA KHÁCH HÀNG
Chưa có đánh giá